Bản tin thông báo nội bộ

Bản tin nội bộ tháng 9 năm 2022

07/10/2022 10:28 1175 lượt xem

Bản tin nội bộ tháng 9 năm 2022

VĂN BẢN CHỈ ĐẠO

* Ngày 12/9/2022, Ban chỉ đạo 880 ban hành Hướng dẫn Thực hiện xóa bỏ các hủ tục, phong tục tập quán lạc hậu, xây dựng nếp sống Văn minh trong nhân dân các dân tộc huyện Xín Mần

Hướng dẫn ban hành nhằm tạo sự chuyên biến mạnh mẽ về nhận thức của các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị xã hội, cán bộ, đảng viên và đại bộ phận nhân dân để tiếp tục thực hiện xóa bỏ các hủ tục, phong tục tập quán lạc hậu; xây dựng nếp sống văn minh trên địa bàn huyện.

Các cơ quan, ban, ngành, Đảng ủy các xã, thị trấn, doanh nghiệp coi đây là nhiệm vụ quan trọng, cần chỉ đạo đồng bộ, thường xuyên và thực hiện có hiệu quả; cán bộ, công chức, viên chức, người lao động gương mẫu thực hiện và có trách nhiệm vận động gia đình, cộng đồng dân cư thực hiện hướng dẫn này.

* Ngày 15/9/2022, Huyện ủy Xín Mần ban hành Kế hoạch số 131-KH/HU về tổ chức bồi dưỡng, tập huấn kỹ năng sinh hoạt chi bộ

Kế hoạch ban hành nhằm cụ thể hóa, tổ chức thực hiện có hiệu quả các văn bản của cấp ủy cấp trên về nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Qua đó trang bị kiến thức, kỹ năng về nghiệp vụ công tác điều hành sinh hoạt chi bộ cho đội ngũ cấp ủy, các đồng chí trực tiếp làm công tác tổ chức xây dựng đảng, bí thư các chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở làm cơ sở vận dụng vào thực tế, giúp cấp ủy thực hiện tốt nhiệm vụ công tác tổ chức xây dựng đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đảng viên và khắc phục những tồn tại, hạn chế, bất cập trong sinh hoạt chi bộ

Nội dung, chương trình bồi dưỡng phải bám sát các quan điểm, chỉ thị, nghị quyết, quy định, hướng dẫn của cấp ủy cấp trên và hướng dẫn của Ban Tổ chức Tỉnh ủy đã ban hành.

* Ngày 06/9/2022, UBND huyện Xín Mần ban hành kế hoạch số 210/KH-UBND về triển khai thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TU ngày 01/5/2022 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về thực hiện xóa bỏ hủ tục, phong tục tập quán lạc hậu, xây dựng nếp sống văn minh trong nhân dân các dân tộc huyện Xín Mần giai đoạn 2022-2025

Kế hoạch ban hành nhằm tiếp tục tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 27-NQ/TU, ngày 01/5/2022 của Ban Chấp hành đảng bộ tỉnh thực hiện xóa bỏ hủ tục, phong tục tập quán lạc hậu, xây dựng nếp sống văn minh trong nhân dân các dân tộc trên địa bàn huyện Xín Mần gia đoạn 2022-2025, định hướng đến năm 2030. Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật, vận động nhân dân bảo tồn phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Đồng thời xóa bỏ những hủ tục, nghi lễ rườm rà trong việc cưới, việc tang, lễ hội trong đời sống sinh hoạt gắn với cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng Nông thôn mới, đô thị văn minh” và thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” góp phần nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần cho nhân dân các dân tộc trên địa bàn huyện.

Trong quá trình triển khai thực hiện các cơ quan, đơn vị và UBND các xã, thị trấn tập trung bám sát những nhiệm vụ, giải pháp được nêu trong Nghị quyết 27-NQ/TU của Tỉnh uỷ; Kế hoạch 175/KH-UBND của UBND Tỉnh và Chương trình, Kế hoạch của Huyện về tuyên truyền vận động nhân dân từng bước xóa bỏ, hủ tục, phong tục tập quán lạc hậu trong đồng bào các dân tộc hiệu quả phù hợp với điều kiện thực tế địa phương.

* Ngày 09/9/2022, UBND huyện Xín Mần ban hành kế hoạch số 213/KH-UBND về triển khai thực hiện Chương trình “Xây dựng mô hình Công dân học tập giai đoạn 2022 -2030” trên địa bàn huyện Xín Mần.

Kế hoạch ban hành nhằm mục đích hình thành phong trào học tập suốt đời thông qua xây dựng mô hình “Công dân học tập” nhằm động viên, khuyến khích, tạo cơ hội công bằng, điều kiện thuận lợi cho mọi cá nhân trong tổ chức, đơn vị, gia đình, mọi công dân trong xã hội được tham gia học tập thường xuyên, học suốt đời, hướng tới công dân số, đáp ứng yêu cầu của Chương trình chuyển đổi số quốc gia và góp phần xây dựng huyện Xín Mần thành một xã hội học tập.

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của các cấp ủy, chính quyền địa phương, qua đó tạo điều kiện và thúc đẩy người lớn học tập, học thường xuyên theo phương thức kết hợp học trực tiếp với học trực tuyến, học ở trường lớp, tại nơi làm việc, tại nhà trên cơ sở xây dựng các kỹ năng số cho người học, gắn phong trào học tập suốt đời trong gia đình, dòng họ, cộng đồng, đơn vị học tập với việc thực hiện Chương trình “Xây dựng mô hình Công dân học tập giai đoạn 2022 -2030” trên địa bàn huyện.

Các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, các lực lượng vũ trang, các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế… trên địa bàn huyện có trách nhiệm triển khai, phối hợp thực hiện nghiêm túc các mục tiêu của Chương trình xây dựng công dân học tập đảm bảo lộ trình, hiệu quả.

Đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc học tập suốt đời, xây dựng xã hội học tập, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực tại chỗ thông qua việc thực hiện xây dựng mô hình “Công dân học tập”. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, hình thành những “Công dân số” đáp ứng yêu cầu của Chương trình chuyển đổi số quốc gia, góp phần hoàn thành chỉ tiêu xây dựng mô hình “Công dân học tập”.

* Ngày 21/9/2022, UBND huyện Xín Mần ban hành kế hoạch số 221/KH-UBND về triển khai thực hiện xây dựng Tuyến đường nông thôn mới kiểu mẫu và Cụm dân cư kiểu mẫu năm 2022

Nhằm thực hiện xây dựng Tuyến đường nông thôn kiểu mẫu và Cụm dân cư kiểu mẫu, góp phần nâng cao chất lượng xã, thôn nông thôn mới, huy động sự đóng góp chung tay xây dựng của cá nhân, tổ chức nhất là phát huy tính chủ động sáng tạo của Ban phát triển thôn, khu dân cư làm cho bộ mặt nông thôn sáng - xanh - sạch - đẹp - an toàn - văn minh.

Triển khai vận động, quán triệt sâu rộng nội dung kế hoạch; đảm bảo công khai, dân chủ, minh bạch, nhân dân được tham gia ý kiến; xây dựng phải mang nét đặc trưng riêng, phù hợp với điều kiện đặc thù của từng xã, thôn đảm bảo thiết thực, hiệu quả.

Xác định rõ lộ trình thời gian, tập trung triển khai trong 03 tháng cuối năm 2022; Kêu gọi xã hội hoá 100% nhưng phải phù hợp, tiết kiệm, triển khai đóng góp vừa sức dân. Tổ chức thực hiện bài bản, xây dựng kế hoạch chi tiết, đảm bảo đáp ứng tiến độ, chất lượng và hiệu quả.

Triển khai hướng dẫn, đôn đốc xuyên suốt; phát huy vai trò kiểm tra, giám sát của HĐND và UBMTTQ, các tổ chức Chính trị - xã hội các cấp trong quá trình thực hiện; làm tốt, đúng đối tượng và kịp thời trong công tác động viên, khen thưởng.

MỘT SỐ CHÍNH SÁCH CÓ HIỆU LỰC

TỪ THÁNG 9 NĂM 2022

1. Thông tư số 44/2022/TT-BTC ngày 21/7/2022  của Bộ Tài chính quy định quản lý và sử dụng kinh phí chi thường xuyên thực hiện chính sách, chế độ ưu đãi người có công với cách mạng, thân nhân của người có công với cách mạng và người trực tiếp tham gia kháng chiến do ngành Lao động – Thương binh và Xã hội quản lý. (có hiệu lực từ ngày 05/9/2022 )

Thông tư này quy định về quản lý và sử dụng kinh phí thường xuyên thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, thân nhân của người có công với cách mạng và người trực tiếp tham gia kháng chiến, tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, giúp bạn Lào, người được cử làm chuyên gia sang giúp Lào và Campuchia do ngành Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý từ nguồn ngân sách trung ương đảm bảo, bố trí trong dự toán chi ngân sách nhà nước của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.

Thông tư nêu rõ, 2 đối tượng được hưởng trợ cấp hàng tháng gồm: Cán bộ, chiến sĩ công an nhân dân tham gia kháng chiến chống Mỹ có dưới 20 năm công tác trong ngành công an nhân dân đã thôi việc, xuất ngũ về địa phương theo Quyết định số 53/2010/QĐ-TTg; quân nhân tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước có dưới 20 năm công tác trong quân đội, đã phục viên, xuất ngũ về địa phương theo Quyết định 142/2008/QĐ-TTg và Quyết định số 38/2010/QĐ-TTg.

Thực hiện trợ cấp hàng tháng và trợ cấp 1 lần đối với người tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, giúp nước bạn Lào sau ngày 30/4/1975 đã phục viên, xuất ngũ, thôi việc theo Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg;...

2. Thông tư số 17/2022/TT-BGTVT ngày 15/7/2022 của Bộ Giao thông vận tải sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2020/TT-BGTVT ngày 29/5/2020 của Bộ trưởng bộ giao thông vận tải quy định về tổ chức, quản lý hoạt động vận tải bằng xe ô tô và dịch vụ hỗ trợ vận tải đường bộ (có hiệu lực từ ngày 15/9/2022).

Thông tư số 17/2022/TT-BGTVT bổ sung Lệnh vận chuyển bản điện tử trong hoạt động vận tải bằng xe ô tô được quy định như sau:

- Đối với kinh doanh vận tải hành khách bằng ô tô theo tuyến cố định:

+ Lệnh vận chuyển bằng bản giấy hoặc điện tử do doanh nghiệp, hợp tác xã tự phát hành theo mẫu quy định tại Phụ lục 6 ban hành kèm theo Thông tư 12/2020/TT-BGTVT . Ngoài những nội dung bắt buộc quy định tại Phụ lục 6, doanh nghiệp, hợp tác xã được bổ sung những nội dung khác để phục vụ công tác quản lý của đơn vị.

+ Khi thực hiện chuyến đi, lái xe mang theo Lệnh vận chuyển bằng bản giấy hoặc có thiết bị truy cập được nội dung của Lệnh vận chuyển điện tử; xuất trình Lệnh vận chuyển bản giấy hoặc bản điện tử khi lực lượng chức năng yêu cầu.

+ Việc cung cấp thông tin trên Lệnh vận chuyển thực hiện theo quy định tại khoản 4 Điều 51 Thông tư 12/2020/TT-BGTVT .

HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG,

ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH

Thực hiện lời Bác Hồ căn dặn Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Giang về phát triển kinh tế

I- NỘI DUNG LỜI CĂN DẶN CỦA BÁC HỒ ĐỐI VỚI ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN CÁC DÂN TỘC TỈNH HÀ GIANG VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ

Xuất phát từ thực tiễn tỉnh Hà Giang trước năm 1961 là tỉnh miền núi, biên giới cực Bắc của Tổ quốc, địa hình chia cắt mạnh, giao thông hết sức khó khăn, khí hậu khắc nghiệt, thiếu đất sản xuất, thiếu nước sinh hoạt; đa số các thôn đều xa trung tâm xã, huyện; điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn[1], Bác có lời căn dặn Đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Giang về phát triển kinh tế, cụ thể:

Đồng bào phải ra sức tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm để làm cho mọi người áo ấm, cơm no (lời căn dặn thứ Hai). Năm 1961, ở miền Bắc, sau thắng lợi của Kế hoạch 03 năm phát triển kinh tế, văn hóa và cải tạo xã hội chủ nghĩa (1958 - 1960); bộ mặt miền Bắc nước ta nói chung, tỉnh Hà Giang nói riêng đã có những chuyển biến sâu sắc về mọi mặt. Tuy nhiên, trình độ phát triển của nền kinh tế còn thấp, đời sống còn nhiều khó khăn, đói kém. Đặc biệt, với tỉnh Hà Giang còn khó khăn hơn nữa, Bác nhận định “mức so với kế hoạch đã định về diện tích lúa mới được 85%, còn thiếu 15%. Sản lượng kém hơn nữa, mới có 80%, kém mất 20%... Ngô so với kế hoạch được 79%, khoai 57%, sắn 62%. Như thế là rất thấp, rất thấp”. Vì vậy, Bác giao nhiệm vụ cho tỉnh là phải “hết sức xem trọng việc tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm để làm cho mọi người áo ấm, cơm no”. Để tăng gia sản xuất, Người chỉ rõ “phải có tổ đổi công và hợp tác xã” nhằm thực hiện liên kết, tạo sức mạnh tập thể trong phát triển nông nghiệp, muốn cho đồng bào vào hợp tác xã nhiều thì phải làm sao cho xã viên có thu nhập cao hơn khi đồng bào làm ăn riêng lẻ, đảm bảo “dân chủ”, “công bằng”, “minh bạch” trong quản lý và hoạt động của hợp tác xã, “Người đông thì sức mạnh, sức mạnh thì sản xuất được nhiều hơn”[2].

Song song với việc tăng gia sản xuất, thì phải thực hành tiết kiệm, theo Bác tiết kiệm “là không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”, tiết kiệm không phải là bủn xỉn, mà những việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc thì bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của cũng vui lòng. Nội dung tiết kiệm, theo Bác, là:

Tiết kiệm sức lao động. Tức là phải tổ chức sắp xếp cho khéo, phải nâng cao năng suất lao động, “1 người làm bằng  2, 3 người”.

Tiết kiệm thời giờ, Bác nói: “Thời giờ tức là tiền bạc”[3]. Phải tiết kiệm thời giờ của mình và tiết kiệm thời giờ của người khác.

Tiết kiệm tiền của. Phải tiết kiệm tiền của Nhà nước, của nhân dân và của chính mình. Việc này liên quan đến tiết kiệm sức người, tiết kiệm thời giờ.

Phải có đủ nước, nhiều phân bón và cải tiến nông cụ (lời căn dặn thứ Ba).

Phải cố gắng làm nhiều thủy lợi, để có đủ nước cho lúa và hoa màu: Bác chỉ ra “Thủy lợi ở đây nếu biết làm thì không khó. Ở đây núi nhiều, nước nhiều làm không khó - thủy lợi kém, phân bón kém thì thu hoạch kém”. Trước đó, nói chuyện tại Hội nghị tổng kết công tác thủy lợi toàn miền Bắc (1959), Bác chỉ rõ muốn làm tốt công tác thủy lợi thì “Cần thực hiện đúng phương châm của Đảng và Chính phủ: Giữ nước là chính, thủy lợi hạng nhỏ là chính và nhân dân tự làm là chính, giữ nước là biện pháp tích cực, chủ động để phòng chống hạn hán, chống úng thủy và chống lụt”, “Các cấp ủy phải tăng cường lãnh đạo công tác thủy lợi chặt chẽ hơn nữa;… làm cho cán bộ và nhân dân thông suốt đường lối, phương châm công tác thủy lợi mới”[4]. Người nhấn mạnh “Việt Nam ta có hai tiếng Tổ quốc, ta cũng gọi Tổ quốc là đất nước; có đất và có nước, thì mới thành Tổ quốc. Có đất lại có nước thì dân giàu, nước mạnh”.

Phải có nhiều phân bón: Phân bón nhiều thì lúa và hoa màu mới tốt. Người từng nói “muốn lúa tốt, hoa màu tốt, cần nhiều phân”. Trong bài viết Một nước, hai phân, ba cần, bốn cải tiến kỹ thuật đăng trên báo Nhân dân vào tháng 7/1958, Bác nói “để bồi bổ ruộng đất, còn cần phải có phân, rất nhiều phân”, “chỉ phân chuồng không đủ, phải ra sức làm các loại phân như phân xanh, phân bùn…”.

Phải cải tiến nông cụ: Vì với những nông cụ cũ kỹ thì khó nhọc nhiều mà thu hoạch ít. Nói chuyện với đại biểu dự Đại hội III của Đảng bộ tỉnh Hà Giang, Bác đã phân tích một số khuyết điểm của cán bộ, nhân dân tỉnh Hà Giang trong việc lãnh đạo và thi đua sản xuất “về nông cụ còn rất thấp kém, có nơi còn cho trâu giẫm”, “lạc hậu quá như thế thì tăng gia sản xuất sao được”. Để khắc phục những hạn chế đó, cần phải cải tiến nông cụ thông qua phát triển công nghiệp và thương nghiệp, Bác nói “Bây giờ đồng bào cần thứ cây gì? Thứ lưỡi cày như thế nào? Thì công nghiệp địa phương phải làm ra… kiểu cách phải hợp với đất đai của đồng bào”, “Thương nghiệp phải bán những thứ của đồng bào mua và mua những gì của đồng bào bán. Thương nghiệp có mua có bán, nhưng phải nhằm phục vụ sản xuất”.

Trong bài viết Muốn cho cuộc sống đổi thay, toàn dân, toàn Đảng ra tay cùng làm đăng trên báo Nhân dân vào tháng 7/1958, dưới bút danh Trần Lực, Người đã nêu lên một số kinh nghiệm làm mùa của nước bạn Trung Quốc, trong đó nêu rõ sự cần thiết phải cải tiến kỹ thuật trong nông nghiệp:

Thi đua làm nhiều thủy nông

Dùng nhiều phân bón, là công việc đầu

Ba là cuốc bẫm, cày sâu,

Bốn chọn giống tốt, năm lo cấy dày

Sáu là kỹ thuật đổi thay,

Toàn dân, toàn Đảng ra tay cùng làm[5].

Muốn cải tiến kỹ thuật thì cán bộ, đảng viên phải nêu gương, làm trước để nhân dân học theo, “bí thư các cấp ủy đảng, cán bộ, đảng viên và đoàn viên thanh niên phải làm những đám ruộng thí nghiệm, dùng kỹ thuật tiên tiến. Rồi động viên nông dân đến xem xét, thảo luận… khi đã trông thấy kết quả tốt của việc cải tiến kỹ thuật, thì nông dân hăng hái làm theo và có rất nhiều phát minh, sáng kiến”.

Cần phải phát triển chăn nuôi trâu, bò, lợn... là nguồn lợi lớn lại là nguồn phân bón ruộng nương (lời căn dặn thứ Bốn). Người đặc biệt coi trọng tính toàn diện trong cơ cấu nông nghiệp, để phát triển nông nghiệp bền vững thì cùng với đẩy mạnh trồng trọt cây lương thực, hoa màu cần phải tăng cường chăn nuôi. Người lưu ý “phải chú ý chăn nuôi càng nhiều càng tốt”. Tuy nhiên, chăn nuôi không chỉ chú ý đến số lượng, mà còn phải chú ý đáp ứng đa dạng các nhu cầu khác nhau: “Phải phát triển mạnh chăn nuôi để bảo đảm có thêm thịt ăn, thêm sức kéo, thêm phân bón”[6]. Chăn nuôi được chú trọng sẽ thúc đẩy trồng cây lương thực và hoa màu phát triển, đây sẽ là nguồn lợi lớn và là nguồn phân bón cho trồng trọt “muốn có nhiều phân chuồng, phải nuôi nhiều trâu, bò, lợn”.

Phải chú ý hơn nữa bảo vệ rừng và trồng cây gây rừng. Trồng cây ăn quả và cây làm thuốc (lời căn dặn thứ Năm). Nhận thấy tiềm năng, thế mạnh, lợi thế thổ nhưỡng, khí hậu của tỉnh Hà Giang rất thuận lợi cho phát triển lâm nghiệp, trồng cây ăn quả và cây làm thuốc, Người đưa ra dẫn chứng “việc khai thác lâm thổ sản trong ba năm qua mỗi năm đưa lại cho đồng bào số tiền bằng 3.765 tấn thóc” và chỉ rõ những hậu quả, thiệt hại khi chặt phá rừng bừa bãi, khai thác tài nguyên thiên nhiên không hợp lý, Người thẳng thắn phê bình: “Bác nghe nói có chỗ khi lấy quả cây về làm dầu đã chặt luôn cả cây. Thế là hết, chỉ ăn có một bữa, bữa sau là hết!”. Bác nhắc nhở: “Cho nên phải bảo vệ rừng. Có nơi phải trồng cây gây rừng. Như thế mới có mãi chứ, không thì lấy đâu mà có mãi. Không phải như cây chuối, ăn buồng xong chặt luôn cây, cây con mọc lên, còn cây khác thì không phải thế”[7].

II- QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO

Đảng ta luôn xác định phát triển kinh tế nông - lâm nghiệp có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế - xã hội.

Đại hội XIII của Đảng xác định phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới theo hướng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân thông minh, đồng thời nêu rõ: Chú trọng phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao; phát huy tiềm năng, lợi thế của từng vùng, từng địa phương, phải gắn kết chặt chẽ nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ; sản xuất với bảo quản, chế biến, tiêu thụ, xây dựng thương hiệu, nâng cao giá trị nông sản trong các chuỗi giá trị và quản lý chặt chẽ, bảo vệ và phục hồi rừng tự nhiên gắn với bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ cảnh quan, môi trường sinh thái.

Đại hội XVII của Đảng bộ tỉnh xác định: Về nông nghiệp: Chú trọng phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao; phát huy tiềm năng, lợi thế của từng vùng, địa phương; gắn kết chặt chẽ nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ, sản xuất, bảo quản, chế biến, tiêu thụ, xây dựng thương hiệu, nâng cao giá trị nông sản trong chuỗi giá trị; khuyến khích phát triển kinh tế hộ, kinh tế hợp tác mà nòng cốt là hợp tác xã, thu hút doanh nghiệp đầu tư. Khai thác và sử dụng hiệu quả tài nguyên đất đai, cải tạo vườn tạp, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực, thực phẩm của tỉnh cả trước mắt và lâu dài; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu nội ngành, tăng khả năng cạnh tranh sản phẩm nông nghiệp trên thị trường trong nước và xuất khẩu. gắn tái cơ cấu ngành với đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới. Về lâm nghiệp: Phát triển lâm nghiệp bền vững phải đi đôi với trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng đầu nguồn, bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu. Thực hiện hài hòa các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh, bảo tồn đa dạng sinh học và từng bước nâng cao độ che phủ rừng, giá trị dịch vụ môi trường rừng và nâng cao thu nhập cho người dân.

III- KẾT QUẢ THỰC HIỆN LỜI CĂN DẶN CỦA BÁC HỒ VỚI ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN CÁC DÂN TỘC TỈNH HÀ GIANG VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ

Những năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, với quyết tâm phấn đấu đưa kinh tế - xã hội tỉnh Hà Giang phát triển bền vững, các cấp ủy, tổ chức đảng đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo triển khai nhiều giải pháp thực hiện lời căn dặn của Bác về phát triển kinh tế và đã đạt được nhiều kết quả tích cực.

Trong giai đoạn 2015 - 2020, tốc độ tăng tổng sản phẩm bình quân đạt 6,8%, đạt mức khá so với các tỉnh trong khu vực. Nông nghiệp tăng trưởng khá, bình quân đạt 4,5%. Tỉnh đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích phát triển chăn nuôi theo hướng hàng hóa, phát huy vai trò của các tổ chức tín dụng trong việc tạo nguồn vốn cho người dân phát triển kinh tế. Chương trình cơ cấu lại ngành nông nghiệp được chỉ đạo triển khai đồng bộ bằng các đề án cụ thể gắn với tổ chức lại sản xuất và cơ cấu lại các nguồn vốn đầu tư; các cây trồng chủ lực của tỉnh được quy hoạch, tập trung chỉ đạo tăng diện tích, nâng cao chất lượng, nhân rộng mô hình liên kết 4 nhà, nâng cao giá trị trên một đơn vị diện tích đất. Khuyến khích người dân phát triển ruộng bậc thang, nương xếp đá, chống xói mòn, tăng quỹ đất sản xuất nông nghiệp. An ninh lương thực trên địa bàn được bảo đảm; một số sản phẩm đã xây dựng được nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý: Cam sành Hà Giang, Chè Shan tuyết, Mật ong Bạc hà. Triển khai lập quy hoạch tổng thể chương trình phát triển cây dược liệu, bảo tồn gen, nguồn giống dược liệu quý hiếm. Chăn nuôi phát triển chiếm 30% trong cơ cấu ngành nông nghiệp. Công tác phòng, chống dịch bệnh, chống rét cho gia súc; phòng, chống sâu bệnh cây trồng được bảo đảm. Quy hoạch và phát triển ba loại rừng, bảo vệ nguồn sinh thuỷ, rừng sản xuất, rừng phòng hộ, đẩy mạnh trồng, cấp chứng chỉ, chăm sóc, bảo vệ phát triển rừng, tạo sinh kế cho đồng bào vùng dân tộc thiểu số nghèo, khu vực dân cư biên giới.

Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới được triển khai quyết liệt, diện mạo nông thôn có nhiều đổi mới. Tổ chức thực hiện tốt việc huy động, lồng ghép các nguồn vốn từ chương trình mục tiêu, các tổ chức, doanh nghiệp và người dân tham gia xây dựng nông thôn mới; phong trào hiến đất làm nhà văn hóa, đường giao thông nông thôn được nhiều địa phương triển khai sâu rộng, hiệu quả, đến cuối năm 2020 có 43 xã đạt chuẩn nông thôn mới. Tập trung xây dựng trung tâm xã và các khu dân cư gắn với phát triển dịch vụ. Quy tụ, sắp xếp các hộ sống rải rác ở các sườn núi cao, vùng thiên tai về sống tập trung tại các thôn, gắn với xây dựng nông thôn mới.

Công tác ứng dụng khoa học, công nghệ gắn với thực tiễn sản xuất và đời sống. Chủ động triển khai hợp tác với các cơ quan, đơn vị khoa học công nghệ có kinh nghiệm và uy tín để nghiên cứu, tư vấn, chuyển giao công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực khoa học, công nghệ. Tập trung ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động quản lý nhà nước, phục vụ công tác cải cách hành chính. Quan tâm triển khai có hiệu quả việc ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, môi trường, y dược; ứng dụng, chuyển giao công nghệ hệ thống bơm nước không dùng điện tại huyện Đồng Văn. 

Bước vào năm đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII nhiệm kỳ 2020 - 2025, kinh tế của tỉnh tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định, tiềm lực kinh tế được nâng lên; tiềm năng, lợi thế từng bước được khai thác có hiệu quả. Việc xây dựng thương hiệu cho các mặt hàng nông sản được thực hiện tốt; kinh tế số bước đầu được triển khai ở nhiều lĩnh vực. Tổng sản phẩm (GRDP) trên địa bàn theo giá hiện hành đạt 27.127,3 tỷ đồng. Thu ngân sách trên địa bàn đạt 2.700 tỷ đồng. Trong sản xuất nông nghiệp, đã mở rộng diện tích gieo trồng cây hàng năm, thực hiện Chương trình cánh đồng mẫu theo phương pháp “5 cùng”, tích cực ứng dụng khoa học kỹ thuật đồng thời tu sửa, nạo vét hệ thống kênh mương dẫn nước để tận dụng nguồn nước trong mùa khô tạo điều kiện duy trì và phát triển sản xuất. Chương trình cải tạo vườn tạp, phát triển kinh tế vườn hộ, tạo sinh kế cho người dân, giảm nghèo bền vững nhận được sự đồng thuận của người dân với 1.143 hộ thực hiện và diện tích vườn tạp được cải tạo là 931.068m2. Bước đầu đã hình thành các vùng chuyên canh theo hướng sản xuất hàng hoá, chất lượng cao.

Trên lĩnh vực sản xuất nông - lâm nghiệp - thủy sản, giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt 7.975,4 tỷ đồng. Chăn nuôi được triển khai tích cực, toàn tỉnh đã có 165 trang trại, gia trại; tổng đàn gia súc 859.981 con, gia cầm trên 5.3 triệu con. Công tác thú y, phòng chống rét, dịch bệnh, kiểm tra, kiểm soát tình hình giết mổ và vận chuyển gia súc, gia cầm ra vào tỉnh được thực hiện tốt.

Trong phát triển rừng, toàn tỉnh trồng mới được 1.862,3 ha, nâng tỷ lệ che phủ rừng lên 58,2%. Dược liệu được xác định là cây trồng có tiềm năng và lợi thế phát triển. Toàn tỉnh trồng mới được trên 11.708 ha cây dược liệu có giá trị kinh tế cao như: Đan Sâm, Y dĩ, Đương quy, Actiso...; đã có 56 sản phẩm thực phẩm, mỹ phẩm có nguồn gốc từ dược liệu được công bố. Tỉnh đã phê duyệt 10 chuỗi giá trị trong đề án tái cơ cấu nông nghiệp.

Thực hiện lời căn dặn của Bác về phát triển kinh tế, Đảng bộ tỉnh Hà Giang đã vận dụng sáng tạo, phù hợp với điều kiện thực tiễn của tỉnh và đã đạt những thành tích đáng kể, đưa Hà Giang từ một tỉnh nghèo nàn, lạc hậu, kinh tế chủ yếu là tự cung, tự cấp trở thành một tỉnh có kinh tế - xã hội ổn định và từng bước phát triển. Những kết quả đó là tiền đề quan trọng để đưa Hà Giang ngày càng phát triển nhanh, bền vững.

Bên cạnh kết quả đạt được, phát triển kinh tế của tỉnh còn chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế; liên kết sản xuất hàng hóa nông nghiệp theo chuỗi giá trị chưa đạt hiệu quả; thu hút doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, sản phẩm của các làng nghề còn đơn điệu; hiệu quả của kinh tế hợp tác xã, trang trại, mô hình hợp tác xã kiểu mới, tiềm năng, lợi thế về kinh tế rừng chưa được khai thác; một số tiêu chí xây dựng nông thôn mới chưa thực chất. Ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất và đời sống chưa rõ nét, chưa mang lại hiệu quả thiết thực. Tổng sản phẩm bình quân đầu người so với các tỉnh miền núi phía Bắc còn ở mức trung bình và thấp. Chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề thấp, một bộ phận lao động chưa tiếp cận cơ hội đào tạo nghề trước khi tham gia thị trường lao động, chưa gắn với sinh kế bền vững.

Nguyên nhân của những hạn chế, về khách quan do xuất phát điểm về kinh tế - xã hội thấp; địa hình chia cắt mạnh, thiếu đất canh tác và nước cho sản xuất, sinh hoạt; hậu quả của chiến tranh biên giới còn ảnh hưởng rất lớn. Biến đổi khí hậu ảnh hưởng nặng nề, thường xuyên, tình hình thiên tai, dịch bệnh diễn biến bất thường. Về chủ quan là do công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát, đôn đốc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế của một số cấp ủy đảng, người đứng đầu thiếu sâu sát, đồng bộ, toàn diện; triển khai thực hiện một số đề án, chương trình về phát triển kinh tế - xã hội chưa có đầy đủ nguồn lực thực hiện vào điều kiện thực tế của từng địa phương, còn biểu hiện chủ quan, nóng vội. Chưa quy hoạch, xác định được vùng sản xuất tập trung; trình độ canh tác còn hạn chế, chưa có sự liên kết trong sản xuất, chế biến, bảo quản và tiêu thụ sản phẩm.

Trích nguồn dẫn:  Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Hà Giang

GƯƠNG NGƯỜI TỐT, VIỆC TỐT

CÔ HIỆU TRƯỞNG TẬN TỤY VỚI NGHỀ

Trong suốt 22 năm công tác cho dù ở cương vị nào cô Nông Thị Lượng – Bí thư chi bộ, Hiệu trưởng Trường PTDTBT tiểu học Bản Ngò cũng là người đầu tàu gương mẫu trong mọi phong trào hoạt động với lòng yêu nghề, mến trẻ, phấn đấu hết mình vì sự nghiệp giáo dục nói chung, giáo dục tiểu học nói riêng của huyện Xín Mần. Từ một giáo viên trẻ còn nhiều bỡ ngỡ, trở thành một cán bộ quản lý giỏi là cả một quá trình phấn đấu nỗ lực không ngừng của cô giáo Nông Thị Lượng. 

Tốt nghiệp trường Sư phạm Hà Giang năm 1998,  đến năm 2000 Cô về giảng dạy tại trường tiểu học xã Nấm Dẩn sau đó chuyển sang trường Tiểu học Cốc Pài huyện Xín Mần. Đến năm 2014 Cô được bổ nhiệm Phó Hiệu trưởng trường PTDTBT tiểu học Chế Là, năm 2021 được bổ nhiệm Hiệu trưởng trường PTDTBT tiểu học Bản Ngò. Cho dù ở bất cứ cương vị nào, là người giáo viên trực tiếp đảm nhiệm công tác giảng dạy hay làm cán bộ quản lý, cô giáo Nông Thị Lượng vẫn thể hiện được vai trò đầy trách nhiệm, không ngừng phấn đấu, rèn luyện để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Nói đến Trường PTDTBT tiểu học Bản Ngò đó là nói đến ngôi trường có đối tượng học sinh đặc biệt bởi phần lớn các em đến từ các thôn cách xa trường, là những thôn đặc biệt khó khăn của Xã Bản Ngò, phần lớn các em là đồng bào dân tộc thiểu số nên các em phải ở nội trú tại trường.  Từ việc ăn, ở, sinh hoạt của các em đến việc giáo dục đạo đức, tác phong, lối sống của các em trong trường luôn được cô Hiệu trưởng quan tâm đặc biệt. Cô dạy các em biết yêu thương, chia sẻ, biết chăm sóc cây cảnh, yêu thiên nhiên. Từ việc tự mình lao động, thiết kế trồng, chăm sóc, bảo vệ bồn hoa, cây cảnh, khuôn viên nhà trường đến việc đôn đốc, hướng dẫn mỗi thầy cô giáo, học sinh tiết kiệm sử dụng điện, nước… cô đều quán triệt và gương mẫu thực hiện trước đã tạo thành thói quen cho mỗi thầy cô giáo, học sinh toàn trường. Cô luôn quan tâm, chú trọng đến công tác bồi dưỡng học sinh có năng khiếu, học sinh giỏi và phụ đạo học sinh yếu, chỉ đạo xây dựng kế hoạch ngay từ đầu năm học, phân công giáo viên theo dõi kiểm tra đôn đốc nên kết quả học tập của các em ngày càng nâng cao. Cô cũng thường xuyên quan tâm rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh, tổ chức các hoạt động tập thể, vui chơi lành mạnh, qua đó, giúp các em phát triển toàn diện.

Song song với nhiệm vụ quản lý, Cô Nông Thị Lượng luôn phát huy dân chủ, quan tâm tạo điều kiện để cán bộ, giáo viên nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; quan tâm chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho chị em, tập trung đổi mới phương pháp dạy và học, thực hiện tốt các phong trào và cuộc vận động của ngành giáo dục. Là người đứng đầu, cô không chỉ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục mà còn làm cho diện mạo của ngôi trường ngày một khang trang, sạch đẹp.

Ngoài giờ lên lớp của các thầy cô và các em học sinh trong trường, Cô đã vận động các thầy cô và các em học sinh chỉnh trang khuôn viên trường lớp như: trồng hoa trong khuôn viên trường, trồng cây xanh xung quanh sân trường, làm nhà truyền thống để trưng bày các sản phẩn của dân tộc…hay việc thực hiện mô hình “Trồng và chăm sóc vườn rau xanh, chăn nuôi gia cầm của học sinh bán trú”. Kết quả, trong năm học 2020-2021 khi thực hiện mô hình đã cung cấp hơn 1.000.000 kg rau sạch cho học sinh Bán trú; hơn 800 kg lợn thịt, 200 đôi chim bồ câu và 300kg ngan, gà thịt.

Qua đó, cải thiện bữa ăn cho học sinh bán trú; làm thay đổi nhận thức và hình thành nhân cách của học sinh, giáo dục tính chăm chỉ, chịu khó, có kỹ năng sống để phục vụ bản thân và giáo dục học sinh biết bảo vệ, yêu quý con vật nuôi, biết bảo vệ môi trường.

Hơn hai mươi năm công tác trong ngành giáo dục, Cô luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, luôn coi trọng thực hiện tốt quy chế dân chủ, luôn lắng nghe ý kiến đóng góp, kiến nghị của giáo viên, phụ huynh, luôn đặt lợi ích tập thể lên lợi ích cá nhân. Bản thân cô với sự nỗ lực phấn đấu không ngừng nhiều năm liền cô luôn đạt danh hiệu Chiến sĩ thi đua cấp cơ sở, và được UBND huyện tặng giấy khen cá nhân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Với sự quản lý chỉ đạo sáng tạo của Cô trong những năm học vừa qua nhà trường luôn đi đầu trong các phong trào thi đua của ngành giáo dục, nhiều năm liền Trường liên tục giữ vững Danh hiệu thi đua Tập thể Lao động xuất sắc và được UBND tỉnh tặng bằng khen giải nhì thi đua toàn ngành. Và hơn tất cả là sự tin yêu của phụ huynh học sinh đối với cô và đối với nhà trường, là tình cảm yêu thương đoàn kết của tập thể cán bộ giáo viên trong công việc cũng như trong cuộc sống hàng ngày.

Cô Nông Thị Lượng – Hiệu trưởng trường PTDTBT tiểu học Bản Ngò nhận giấy khen của UBND huyện

Từ những thành tích đã đạt được, cô Nông Thị Lượng xứng đáng là một tấm gương điển hình tiên tiến trong phong trào thi đua “ Đổi mới, sáng tạo trong dạy và học”, góp phần vào sự nghiệp phát triển giáo dục và đào tạo huyện Xín Mần nói riêng và tỉnh Hà Giang nói chung.

NGƯỜI VIẾT BÀI

Hoàng Thị Hằng

Ban Tuyên giáo Huyện ủy Xín Mần.

MỘT SỐ NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM

THÁNG 10 NĂM 2022

Các Chi, Đảng bộ trực thuộc Đảng bộ huyện bám sát nội dung định hướng công tác tuyên truyền của Ban Tuyên giáo Huyện ủy và tình hình thực tiễn ở địa phương, đơn vị mình, tập trung tuyên truyền tốt một số nội dung trọng tâm trong tháng 10/2022:

1. Tiếp tục tuyên truyền những nội dung cốt lõi, việc cụ thể hóa triển khai thực hiện đưa nghị quyết đại hội đảng các cấp vào cuộc sống; tuyên truyền cách làm sáng tạo, hiệu quả, tập thể, cá nhân điển hình trong việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về phong cách nêu gương và thực hiện Tám lời Bác Hồ căn dặn Đảng bộ, nhân dân các dân tộc Hà Giang.

2. Tuyên truyền nội dung cốt lõi, điểm mới các văn bản mới được ban hành, như: Các nghị quyết được thống nhất thông qua tại Kỳ họp thứ 9 (chuyên đề) Hội đồng nhân dân tỉnh khóa XVIII; Chỉ thị số 21-CT/TU, ngày 09/9/2022 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về lãnh đạo đại hội hội nông dân các cấp tiến tới Đại hội đại biểu Hội Nông dân tỉnh Hà Giang lần thứ X, nhiệm kỳ 2023 - 2028; kết quả Đại hội đại biểu Hội Cựu chiến binh tỉnh Hà Giang lần thứ VII, nhiệm kỳ 2022-2027; tuyên truyền hướng tới Hội nghị biểu dương đại biểu Lao động giỏi điển hình lần thứ VII trong cán bộ, công chức, viên chức, lao động tỉnh Hà Giang, giai đoạn 2017-2022, trong đó trọng tâm tuyên truyền về kết quả thực hiện phong trào thi đua “Lao động giỏi” trong cán bộ, công chức, viên chức, người lao động các cấp công đoàn Hà Giang. 

3. Tuyên truyền Hướng dẫn số 08-HD/BCĐ, ngày 12/9/2022 của Ban Chỉ đạo 880 huyện ủy Xín Mần về thực hiện xóa bỏ các hủ tục, phong tục tập quán lạc hậu, xây dựng nếp sống văn minh trong nhân dân các dân tộc huyện Xín Mần; Kế hoạch số 220/KH-UBND, ngày 20/9/2022 của Ủy ban nhân dân huyện về triển khai thực hiện “Tháng dân vận” năm 2022; Kế hoạch số 221/KH-UBND, ngày 21/9/2022 của Ủy ban nhân dân huyện về triển khai thực hiện xây dựng Tuyến đường nông thôn mới kiểu mẫu và Cụm dân cư kiểu mẫu năm 2022;  Kế hoạch số 226/KH-UBND, ngày 03/10/2022 của Ủy ban nhân dân huyện về củng cố, phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ kế hoạch hóa gia đình trên địa bàn huyện Xín Mần đến năm 2030.

4. Tuyên truyền nhấn mạnh mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp tổ chức triển khai thực hiện Chương trình số 26-CTr/TU, ngày 31/8/2022 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Chương trình hành động của Ban Thường vụ Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 10/02/2022 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế-xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Chương trình số 28-CTr/TU, ngày 12/9/2022 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy thực hiện Kết luận số 36-KL/TW, ngày 23/6/2022 của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 trên địa bàn tỉnh Hà Giang. Đối với Kế hoạch số 283-KH/TU, ngày 08/9/2022 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy thực hiện Kết luận số 14-KL/TW, ngày 22/9/2021 của Bộ Chính trị về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung, chú trọng tuyên truyền các nội dung thực hiện, điển hình tiên tiến, cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; kịp thời đấu tranh, ngăn chặn, phản bác, xử lý nghiêm những quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc, những thông tin bịa đặt của các thế lực thù địch, phần tử xấu, gây chia rẽ mất đoàn kết nội bộ.

5. Tuyên truyền kết quả phát triển kinh tế - xã hội tháng 10/2022. Trong đó, trọng tâm tuyên truyền công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp trong triển khai nhiệm vụ phục hồi, phát triển kinh tế, nhất là việc thực hiện các nhiệm vụ, chỉ tiêu được nêu tại Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII và các nghị quyết chuyên đề của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về phát triển kinh tế, gắn với Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng Nông thôn mới; kết quả và quá trình thực hiện chuyển đổi số; đẩy mạnh cải cách hành chính…; tăng cường tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia xóa bỏ các hủ tục lạc hậu trong đời sống sinh hoạt, trong lao động sản xuất (như: không giết mổ quá nhiều gia súc (trâu, bò, lợn, dê) khi gia đình có người chết, không tổ chức đám tang dài ngày (quá 48 tiếng), cần đưa người nhà bị ốm đến khám, chữa bệnh tại các cơ sở y tế, không làm lễ cúng để chữa bệnh; không tổ chức cho con kết hôn khi chưa đủ tuổi theo pháp luật quy định; không tổ chức lễ cưới linh đình…), tham gia giữ gìn vệ sinh môi trường, tích cực xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, xóa đói, giảm nghèo bền vững. Tuyên truyền về thuế và chính sách, pháp luật thuế; việc thực hiện các chương trình, chính sách tín dụng của Chính phủ và của tỉnh.

6. Thông tin, tuyên truyền về mục đích, ý nghĩa, thời gian, chủ đề Lễ hội, địa điểm và quy mô tổ chức Lễ hội “Hoa Tam giác mạch” lần thứ VIII năm 2022. Cùng với đó, tăng cường giới thiệu, quảng bá về hình ảnh và sản phẩm du lịch Hà Giang, thương hiệu Lễ hội Hoa Tam giác mạch gắn với bản sắc văn hóa cộng đồng các dân tộc trong tỉnh, các hoạt động có tính chất điểm mới, điểm nhấn, điểm khác biệt so với các năm trước nhằm tạo được không khí vui tươi, phấn khởi, tạo dấu ấn tốt đẹp đối với nhân dân và du khách khi đến với Hà Giang. Tuyên truyền nổi bật các hoạt động trong chuỗi sự kiện, như: Không gian giới thiệu Sản phẩm OCOP, sản phẩm hàng hóa nông nghiệp đặc trưng của tỉnh gắn với công bố kết quả chứng nhận sản phẩm OCOP tỉnh Hà Giang năm 2022; Giải Marathon quốc tế “Chạy trên cung đường Hạnh phúc” lần thứ IV; Giải đua xe ô tô, mô tô mạo hiểm “Tinh thần Đá” tỉnh Hà Giang lần thứ III năm 2022; Giải Quần vợt “Cúp Cao nguyên đá Hà Giang mở rộng lần thứ V”; Giải đua thuyền Kayak, Sup ván đứng; hoạt động du lịch  trải  nghiệm:  Trình  diễn  giao  lưu  văn  nghệ  và  các  trò  chơi  dân  gian  truyền thống của đồng bào dân tộc… 

7. Bám  sát  thực  tiễn  đẩy  mạnh  tuyên  truyền  phòng  chống  dịch  bệnh trên người, vật nuôi, cây trồng; công tác phòng chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn; công tác phòng cháy, chữa cháy, đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội, đảm bảo an toàn giao thông trên địa bàn; công tác chỉ đạo, kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm tại cơ sở sản xuất kinh doanh, trong các trường học tổ chức cho học sinh ăn bán trú, học sinh nội trú; tuyên truyền các hoạt động an sinh xã hội, công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em... 

8. Tuyên truyền quan hệ Việt Nam-Trung Quốc, trọng tâm khẳng định, hơn 70 năm qua, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, mặc dù có lúc thăng trầm, nhưng hữu nghị, hợp tác vẫn là dòng chảy chính, tình hữu nghị do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Mao Trạch Ðông cùng các thế hệ lãnh đạo hai nước dày công vun đắp đã trở thành tài sản chung quý báu của hai dân tộc. Trong tình hình hiện nay, việc củng cố và tăng cường hơn nữa quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc phù hợp với lợi ích lâu dài của hai nước và nhân dân hai nước, có lợi cho việc duy trì hòa bình, ổn định và thúc đẩy hợp tác ở khu vực và trên thế giới. Trung Quốc đang chuẩn bị tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XX của Đảng Cộng sản Trung Quốc, tập trung tuyên truyền những thành tựu nổi bật của Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc; tăng cường thông tin tích cực về quan hệ hợp tác giữa Việt Nam - Trung Quốc; những kết quả nổi bật trong quan hệ giữa tỉnh Hà Giang với các địa phương của Trung Quốc; hạn chế thông tin tiêu cực, thông tin xấu ảnh hưởng đến quan hệ hai Đảng, hai nước.  

9. Tuyên truyền kỷ niệm 40 năm  Công  ước  Liên  hợp  quốc  về  Luật  Biển (10/12/1982 - 10/12/2022); 20 năm Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông - DOC  (04/11/2002  - 04/11/2022)  và  10  năm  Luật  Biển  Việt  Nam: Trong  tuyên truyền khẳng định, sau Hiến chương Liên hợp quốc, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS) được đánh giá là văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng nhất kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Tuyên truyền nhấn mạnh ý nghĩa và vai trò của DOC đối với việc duy trì hòa bình, an ninh, ổn định, hợp tác và thịnh vượng ở khu vực; là cơ sở để tiến hành đàm phán COC thực chất, hiệu quả. Chú trọng tuyên truyền chủ trương, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước ta trong phát triển bền vững kinh tế biển; quyết tâm của Việt Nam trong phòng, chống hoạt động khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định.

10. Tiếp tục thông tin, tuyên truyền, động viên cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân tích cực hưởng ứng, tham gia các cuộc thi do Trung ương, tỉnh tổ chức, như: Giải báo chí của Đảng bộ tỉnh Hà Giang về xây dựng Đảng năm 2022; Giải báo chí  toàn  quốc  về  xây  dựng  Đảng  (Giải  Búa  liềm  vàng)  lần  thứ  VII  -  năm 2022…

11. Tuyên truyền các hoạt động Kỷ niệm 35 năm Đại hội đồng Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên hợp quốc (UNESCO) ra Nghị quyết 24C/18.65 vinh danh Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam”. Nhấn mạnh Nghị quyết 24C/18.65 là minh chứng hùng hồn khẳng định sự đúng đắn, chính nghĩa của sự nghiệp giải phóng dân tộc của Việt Nam, là sự công nhận của cộng đồng quốc tế đối với những đóng góp to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đấu tranh của nhân loại trước áp bức, bất công, vì độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.

 12. Tuyên truyền Ngày Chuyển đổi số quốc gia 10/10, trong đó tập trung vào một số nội dung sau: (1) Tuyên truyền về chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác chuyển đổi số;  tuyên truyền Nghị Quyết số 18-NQ/TU ngày 29/10/2021 của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Hà Giang về chuyển đổi số trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030; Quyết định số 505/QĐ-TTg ngày 22/4/2022 của Thủ tướng Chính phủ về  ngày  Chuyển  đổi  số quốc gia;  các  hoạt động hưởng ứng  Chuyển đổi số quốc gia ở cấp Trung ương, địa phương. (2) Tuyên truyền về những mô hình hay, việc làm thiết thực của các cơ quan, doanh nghiệp, địa phương, tổ công nghệ cộng đồng về chuyển đổi số. Quảng bá các giá trị, lợi ích của việc xây dựng chính quyền số, kinh tế số, xã hội số. (3) Việc phổ biến, hướng dẫn các kỹ năng số cơ bản cho người dân như truy cập và sử dụng Internet, mua bán trực tuyến, thanh toán điện tử, dịch vụ công  trực  tuyến;  kỹ  năng  bảo  đảm  an  toàn  thông  tin  cá  nhân...  (4) Thành tựu của Việt Nam, của tỉnh Hà Giang trong công tác chuyển đổi số gắn với những kết quả cụ thể, nhất là trong công tác cải cách hành chính gắn với chuyển đổi số; hoạt động thương mại điện tử; hoạt động ứng dụng CNTT trong phát triển kinh tế - xã hội, cuộc thi tìm hiểu về chuyển đổi số…

13. Tuyên truyền mục đích, ý nghĩa, các hoạt động kỷ niệm  diễn ra trong tháng 10 và đầu tháng 11/2022 như: Ngày Quốc tế Người cao tuổi (01/10) và Ngày Vì  người  nghèo  (17/10);  31  năm  ngày  tái  lập  tỉnh  Hà  Giang  (01/10/1991- 01/10/2022); 61 năm ngày truyền thống lực lượng Cảnh sát Phòng cháy chữa cháy và Cứu nạn, cứu hộ (04/10/1961-04/10/2022); kỷ niệm 92 năm ngày thành lập Hội Nông dân Việt Nam (14/10/1930-14/10/2022 ); 92 năm ngày truyền thống ngành Tổ chức xây dựng Đảng (14/10/1930-14/10/2022); 92 năm ngày truyền thống công tác Dân vận của Đảng (15/10/1930-15/10/2022); 92 năm ngày truyền thống Văn phòng cấp ủy (18/10/1930-18/10/2022); 74 năm truyền thống Ngành Ủy Ban Kiểm tra Đảng (16/10/1948 - 16/10/2022); 92 năm ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (20/10/1930- 20/10/2022); Kỷ niệm 61 năm ngày mở Đường Hồ Chí Minh trên biển (23/10/1961 - 23/10/2022)…

Đối với tuyên truyền Kỷ niệm 61 năm Ngày mở Đường Hồ Chí Minh trên biển (23/10/1961 - 23/10/2022): Tuyên truyền khẳng định chủ trương đúng đắn, sáng tạo của Đảng trong việc quyết định mở tuyến đường chiến lược quan trọng trên biển, góp phần làm nên thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc những chiến công và thành tích vẻ vang của Đường Hồ Chí Minh trên biển; khẳng định Đường Hồ Chí Minh trên biển là biểu tượng vinh quang, tự hào của cả dân tộc, hiện thân của ý chí và khát vọng hòa bình, thống nhất Tổ quốc. Tôn vinh, tri ân công lao, đóng góp to lớn của cán bộ, chiến sĩ “Đoàn tàu không số” (Đoàn 759, tiền thân của Lữ đoàn 125, Bộ Tư lệnh Vùng 2, Quân chủng Hải quân) và nhân dân cả nước trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược; quá trình xây dựng lực lượng Hải quân nhân dân Việt Nam “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”, thật sự là lực lượng nòng cốt trong thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ biển, đảo của Tổ quốc…

Nguồn Ban Tuyên giáo Huyện ủy

CHỊU TRÁCH NHIỆM XUẤT BẢN

Đ/c Nguyễn Ngọc Khuyên

Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy,

Trưởng Ban Tuyên giáo, Giám đốc Trung tâm Chính trị huyện - Trưởng ban biên tập.

PHỤ TRÁCH NỘI DUNG

1. Đ/c Trần Văn Hòa

Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ huyện,

Phó Trưởng ban TTr Ban Tuyên giáo Huyện ủy

2. Đ/c Lù Văn Lìn

Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Huyện ủy

BIÊN TẬP NỘI DUNG

1/ Đ/c Lý Mạnh Hồng - Chuyên viên BTG

2/ Đ/c Hoàng Thị Hằng - Chuyên viên BTG

3/ Đ/c Hoàng Văn Phong - Chuyên viên BTG

 

[1] Nghị quyết của Đại hội đại biểu Đảng Lao động Việt Nam tỉnh Hà Giang lần thứ III về phương hướng, nhiệm vụ công tác trước mắt

[2] Bác Hồ với Hà Tuyên, Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Hà Tuyên, 1987, tr. 54.

[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 6, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2002, tr.637.

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 12, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011, tr.13, 14.

[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 11, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011, tr.453

[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 13, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 213

[7] Bác Hồ với Hà Tuyên, Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy Hà Tuyên, 1987, tr. 46.

Ban Tuyên giáo Huyện ủy

Tin khác

Liên kết website